Tranh luận Mục_đích_luận_trong_sinh_học

Các nhà tư tưởng tôn giáo và nhà sinh vật học đã nhiều lần cho rằng sự tiến hóa được thúc đẩy bởi một loại thế lực nào đó, một triết học được gọi là thuyết sinh tồn, và thường cho rằng nó có một số loại mục tiêu hoặc phương hướng (hướng tới mà những nỗ lực này sẽ phấn đấu để đạt đến), được gọi là quá trình phát sinh trực quan hoặc quá trình tiến hóa; một số người ủng hộ thuyết hình sinh coi nó là một sức mạnh tinh thần, trong khi những người khác cho rằng nó hoàn toàn thuộc về lĩnh vực sinh học, nhà phôi học người Nga Karl Ernst von Baer tin vào một thế lực xa xăm nào đó trong tự nhiên[5][6] trong khi nhà triết học tâm linh người Pháp Henri Bergson lại gắn kết thuyết hình sinh với thuyết sinh tồn, lập luận về một thế lực sáng tạo trong tiến hóa được gọi là élan và được nêu trong cuốn sách của ông có tên Tiến hóa Sáng tạo (1907)[7]

Nhà sinh vật học Công giáo Kenneth Miller chủ trương có sự tương hợp giữa thuyết Tiến Hoá và đức tin tôn giáo cho rằng loại trừ Thiên Chúa ra khỏi sự sáng tạo, làm cho con người mất đi căn bản đạo đức, thì thuyết Tiến Hoá không chỉ là sai nhưng thật sự là nguy hiểm. Quan điểm cuả ông cho rằng sự tiến hóa là phản ánh cái mục đích của Thiên Chúa để tạo ra những sinh vật tự do có khả năng yêu thật sự, so sánh với quan điểm trái ngược của các nhà khoa học khác kết luận rằng sự tiến hóa có nghĩa là vũ trụ là không có ý định thì cả hai đều không thể kết luận là khoa học. Tiến Hóa không phải là ngẫu nhiên, quá trình tiến hoá sinh học đi theo con đường gọi là "thích nghi không gian" và hoạt động trong khuôn khổ cuả vật lý và hóa học[8].

Nhà lý sinh học người Pháp Pierre Lecomte du Noüy và nhà thực vật học người Mỹ Edmund Ware Sinnott đã phát triển các triết lý tiến hóa quan trọng lần lượt được gọi là thuyết viễn tưởng. Quan điểm của họ bị chỉ trích nặng nề là phi khoa học[9] nhà cổ sinh vật học George Gaylord Simpson lập luận rằng Du Noüy và Sinnott đang thúc đẩy các phiên bản tôn giáo của sự tiến hóa[10]. Nhà cổ sinh vật học của Dòng Tên Pierre Teilhard de Chardin lập luận rằng quá trình tiến hóa nhằm mục đích hướng tới một "Điểm Omega" tâm linh mà ông gọi là "sự nhạy cảm có định hướng"[11][12]. Với sự xuất hiện của thuyết tiến hóa tổng hợp hiện đại, trong đó các cơ chế di truyền của quá trình tiến hóa được khám phá, giả thuyết về sự phát sinh trực quan phần lớn đã bị các nhà sinh vật học từ bỏ, đặc biệt là với lập luận của Ronald Fisher trong cuốn sách The Genetical Theory of Natural Selection năm 1930 của ông[13]

Phép biện luận của Watchmaker lập luận rằng sự hiện diện của một cơ chế phức tạp như một chiếc đồng hồ ngụ ý sự tồn tại của một nhà thiết kế có ý thức và thần học liên kết với ý tưởng về thần học tự nhiên thời tiền Darwin, rằng thế giới tự nhiên vốn đã là cung cấp bằng chứng về thiết kế có ý thức và ý định có lợi của một người sáng tạo, như trong các tác phẩm của John Ray[14]. William Derham tiếp tục kế thừa John Ray với những cuốn sách như Thần học Sinh lý (Physico-Theology) năm 1713 và Thần học Chiêm tinh (Astro-Theology) năm 1714 của ông[15].

Đến lượt mình, họ đã ảnh hưởng đến William Paley, người đã viết một lập luận chi tiết về thần học cho Chúa vào năm 1802 có tên là Natural Theology, or Evidences of the Existence and Attributes of the Deity collected from the Appearances of Nature (tạm dịch: Thần học tự nhiên, hoặc Các bằng chứng về sự tồn tại và thuộc tính của vị thần được biết đến từ Sự xuất hiện của Đấng Thiên nhiên)[16] khởi phát từ quan điểm của Watchmaker[17]. Những thuyết sáng tạo như vậy, cùng với một sinh lực quan trọng và sự tiến hóa di truyền có định hướng, đã bị hầu hết các nhà sinh vật học bác bỏ[14]. Việc gán các mục đích cho sự thích nghi có nguy cơ nhầm lẫn với các dạng thức phổ biến của học thuyết Lamarck cho rằng các loài động vật nói riêng được cho là ảnh hưởng đến sự tiến hóa của chính chúng thông qua ý định của chúng, nhưng niềm tin này đã bị thách thức về mặt khoa học[18][19]

Lý thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin đã khiến thuyết cứu cánh (teology) hay mục đích luận cho rằng mọi sự vật đều có mục đích nội tại trở nên không cần thiết. Kể từ thời Hy Lạp, đã có một niềm tin phổ biến về sự tồn tại của một nguyên nhân chi phối sự diễn biến của toàn thế giới và cái "nguyên nhân cuối cùng" này là một trong những nguyên nhân được Aristote chỉ. Sau khi không thành công khi cố gắng giải thích các hiện tượng sinh học, E.Kant cũng đã phải nhờ đến nguyên nhân của thuyết cứu cánh. Sau năm 1859, những giải thích dựa trên thuyết cứu cánh cũng vẫn tiếp tục được sử dụng khá phổ biến trong sinh học tiến hóa. Darwin tin vào tính phổ quát của sự ngẫu nhiên và may rủi qua quá trình chọn lọc tự nhiên, chỉ bước đầu tiên trong chọn lọc tự nhiên, sự tạo ra các biến đổi mới là vấn đề của sự ngẫu nhiên nhưng bước thứ hai, sự chọn lọc thực tế lại là có tính định hướng. Nhiều nhà sinh học và triết học đã chối bỏ sự tồn tại của các định luật phổ quát trong sinh học và đề xuất rằng, tất cả những hiện tượng mang tính quy luật nên được phát biểu theo lý thuyết xác suất.